Gregory Djanikian | Bữa tối đầu tiên trên đất nước mới. Mua thảm. Alexandria, 1953

Gregory Djanikian

Phan Nhiên Hạo dịch

Gregory Djanikian là người Armenia nhưng sinh ra ở thành phố Alexandria, Ai Cập, năm 1949. Ông nhập cư đến Mỹ năm tám tuổi, học cử nhân văn chương tại University of Pennsylvania và cao học nghệ thuật ở Syracuse University. Trong nhiều năm ông cũng là giám đốc chương trình dạy viết văn tại University of Pennsylvania. Gregory Djanikian đã xuất bản sáu tập thơ: The Man in the Middle, Falling Deeply into America, About Distance, Years Later, So I Will Till the Ground, và Dear Gravity. Thơ Gregory Djanikian phản ánh kinh nghiệm cá nhân của một người nhập cư qua lăng kính lịch sử và văn hóa của Armenia. Armenia là một quốc gia nhỏ nhưng có nền văn minh lâu đời, nằm ở vùng núi Caucasus. Trải qua lịch sử, Armenia luôn bị xâu xé bởi các quốc gia láng giềng lớn hơn, như Iran và Thổ Nhĩ Kỹ. Từ 1914 đến 1923, Thỗ Nhĩ Kỳ đã thực hiện một chính sách diệt chủng đối với người Armenia, làm chết khoảng 1.5 triệu người (Armenian Genocide), dù đến hôm nay Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không công nhận sự kiện lịch sử này. Dưới thời Sô Viết, Armenia là một nước cộng hòa trong liên bang Sô Viết, và chỉ được độc lập vào năm 1991, sau khi Nga Sô sụp đổ. Người Armenia lưu lạc nhiều nơi trên thế giới, mang ý thức dân tộc, lịch sử, và văn hóa sâu đậm, ngay cả đối với những người nhập cư đến Mỹ lúc nhỏ như Gregory Djanikian. Một số bài thơ của Gregory Djanikian, như bài “Bữa Tối Đầu Tiên Trên Đất Nước Mới,” khiến tôi liên tưởng đến những truyện ngắn trong tác phẩm The Man with the Heart in the Highlands and other stories của William Saroyan, nhà văn Mỹ gốc Armenia nổi tiếng (1908 – 1981). (Trước 1975, nhà thơ Huy Tưởng đã dịch một tác phẩm của William Saroyan ra tiếng Việt, Chàng Trẻ Tuổi Gan Dạ Trên Chiếc Đu Bay).

Phan Nhiên Hạo

 

Bữa tối đầu tiên trên đất nước mới

 

Cậu Hagop nướng thịt kebab
trên lò sưởi, ngồi trên một thùng gỗ,
phết lên từng mẩu thịt cừu
ya-ua và dầu.

“Miếng này cho mẹ cháu,” cậu nói,
dùng cọ quét đồ ướp lên một xiên thịt,
“và miếng này để tưởng nhớ ông ngoại
người đã bơi với cá.”

Căn phòng chẳng có đồ đạc gì
những tấm thảm của chúng tôi đã bị bỏ lại,
chỉ có rất nhiều tiếng vang.

Bên ngoài, thành phố Pennsylvania
nặng tuyết, vỉa hè
biến mất, đường phố trở thành
ảo ảnh cồn cát.

“Cậu Hagop,” tôi nói, “căn phòng
khói quá.” Mắt chúng tôi
bắt đầu ngấn nước, chúng tôi mở cửa sổ,
đập khăn xua khói cửa chính.

“Nhìn những người đẹp này đi,” cậu nói, lật
ngang mấy củ hành tây, và hát
Ôi hãy vùng lên trái tim Armenia của ta
trên vùng Caucasus châu báu!

Chẳng thể làm gì ngoài việc nhún vai bất lực
khi hàng xóm đi ngang qua cửa
nhìn vào, kinh ngạc thấy thứ gì đó
giống như lửa trại giữa lòng thành phố
và Cậu Hagop đang nâng ly chào.

Dịch từ nguyên bản tiếng Anh, “First Supper in the New Country.” Poetry Magazine, April 2003.

*

Mua thảm

 

Chúng tôi ở trong một kho bán thảm,
vợ tôi và tôi, hàng trăm tấm thảm
chất cao như chồng bánh bột,
đưa giùm tôi hủ si-rô.

Dĩ nhiên, hoang mang,
nhưng tôi chỉ muốn mua thảm Armenia
ở đây phần lớn là thảm Turkey,
Tôi cảm nhận được sức ép
lịch sử quanh tim.

Vợ tôi thích những màu vàng và đỏ
gợi nhớ chim tanager miền Tây
quê hương của nàng, và những sắc xanh
trong mờ như những cánh hoa của cây lanh dại,
nàng nói.

Nhưng tôi lắc đầu nói không
với tất cả chúng, không với Hereke,
với Seljuk, với Usak, với Beyshekir.

Chủ nhân người Séc kiên nhẫn,
mời uống cà phê, giải thích
các loại màu nhuộm khác nhau, nguyên liệu tự nhiên,
phải mất ba tháng mới xong một thảm,
hỏi tôi liệu thợ người Thổ
nhưng sống ở Moldova có thể chấp nhận được không,
nhưng tôi tiếp tục khước từ, tôi đang nghĩ đến
người ông của tôi trong một ngôi làng
chờ đợi những người lính đến, hay đợi một sợi hy vọng.

Còn thảm Ấn Độ thì sao, người bán hàng hỏi,
hay thảm Trung Hoa có màu lục nhạt,
và tôi thấy dễ chịu hơn,
cây kim khoảng cách thẩm mỹ-thực tại của tôi
giờ hướng lên cao, mặc dù nếu tôi là người Tây Tạng
hoặc người Kasmir, liệu tôi sẽ quay lưng lại
bỏ đi, dưới sức nặng của phả hệ
và máu đè nặng lên người?

Dịch từ nguyên bản tiếng Anh, “Buying a Rug.” Poetry Magazine, May 2002.

*

Alexandria, 1953

 

Bạn có thể nghĩ về ánh mặt trời
Lướt qua trên tháp thánh đường,
Bạn có thể nghĩ về ổi và những quả sung
Và về một chợ tràn ngập
Tiếng ồn thừa mứa của cuộc mặc cả,
Nhưng bạn không thể nghĩ về Alexandria
Mà không có biển, hay nghĩ về biển,
Màu ngọc lung linh, mà không
Có thành phố trắng vươn lên phía trước.

Ngay cả trên những con đường trong phố
Bạn cũng có thể cảm nhận được biển trên da,
Có thể ngửi mùi của biển trong hương
Của cà phê đậm, và của thịt nồng.

Nhìn biển bạn có thể nghe
Âm thanh rền rĩ của người đàn bà Ả Rập hát hay nguyện cầu.

Nếu bạn có thể như tôi bây giờ, chỉ ra
Bắc Đại Tây Dương, sưng phồng
Và thường u ám, bạn nói,
“Đây là Phẫn Nộ,” hay “Thượng Đế thì vĩ đại.”
Bạn đã có thể dùng nó để thêm gia vị cho một linh hồn Thanh Giáo.

Nhưng bạn có thể rơi vào Địa Trung Hải
Như thể rơi vào một giấc mơ xanh,
Mỏng tang, hư ảo vì quá yêu kiều
Yên ả, xa hoa một cách lừa mị.
Ở vịnh Stanley, bạn có thể thả nổi
Trên lưng và ngắm mặt trời chiều tối
Phủ lên thành phố màu hoa hồng nhạt.
Bạn có thể chìm, như người ta nói,
Mà gần như không hay biết.

Dịch từ nguyên bản tiếng Anh, “Alexandria, 1953.” Poetry Magazine, October/November 1987